Nhà tôi ở Huế đã thâm căn cố đế nhiều đời nhưng quê mẹ tôi thì lại ở Trung Lương. Tôi còn nhớ nhà ngoại tôi ở bờ nam cách cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải chừng ba cây số. Chính ở cái cầu định mệnh này, cha mẹ tôi đã gặp nhau. Cũng chính ở cái dòng sông lịch sử này, dòng sông mà người ta vẫn cho là luôn có hai màu nước, đã cho tôi một kỷ niệm nhớ đời.
Năm tôi mười bốn tuổi, vì người tôi vốn chậm phát triển nên trông vẫn như đứa trẻ mười một mười hai. Thời kỳ đó cũng là lúc thanh bình nhất của đất nước sau ngày chia cắt. Vùng quê ngoại tôi đã trở thành vùng phi chiến. Bên ngoài nhìn vào người ta thấy người dân vùng giới tuyến thoải mái làm ăn mà không sợ đạn lạc tên bay bất ngờ. Cha tôi sau thời gian trấn đóng trên cầu Hiền lương thì cưới mẹ tôi rồi giải ngũ về làm ăn ở Huế. Con đường từ Huế ra Bến Hải trong thời chiến tranh rất nguy hiểm, nhất là đoạn qua Gio Linh mà chỗ nổi danh là Cồn Mã Đỏ. Người ta hay truyền miệng về những trận phục kích, đột kích hãi hùng mà Việt Minh đã thực hiện ở đây. Người ta cũng hay nói về những hồn ma, những đơn vị quân đội Pháp hay hiện lên vào lúc hoàng hôn, nhất là vào những chiều có mưa giông, lũ ma hay lao xao tập trận bên đồi hoang đồng vắng. Nhiều nguời nói họ đã nghe mơ hồ tiếng nhịp bước quân hành và tiếng hô "ắc đơ ắc đơ" trong gió. Bấy lâu vì nguy hiểm, vì cách trở, nên gia đình tôi rất ít khi về thăm bên ngoại. Chỉ có bà ngoại tôi, tuy tuổi khá già hay lặn lội vào Huế thăm con cháu thôi.
Năm đó họ ngoại tôi làm đám chay lớn. Nhằm vào lúc thanh bình, cha mẹ tôi quyết định đưa cả gia đình về dự một chuyến. Chúng tôi về đến quê ngoại với sự đón tiếp niềm nỡ thân mật của toàn họ hàng ở đây. Riêng tôi thì được anh Tập, con cậu Kế tôi, nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng lại lớn xác hơn tôi, quấn quít săn sóc như một đứa em nhỏ sau nhiều năm xa cách. Cũng từ lúc đó, ở đâu hai đứa tôi cũng như hình với bóng.
Buổi tối, trong lúc mọi người đang bận rộn công việc thì anh Tập hỏi tôi:
- Danh ưng ăn ổi không?
- Ưng, lấy ở đâu?
Anh Tập ra dấu bí mật:
- Ổi và có thể có cả mít nữa. Im lặng mà đi đừng để ai biết!
Thế là tôi nhẹ nhàng thoăn thoắt đi theo anh Tập. Đến một cái vườn kia, Tập và tôi chun hàng rào để vô trong. Vườn rậm, nhiều loại cây, có mấy cây ổi rất nhiều trái. Chúng tôi cùng leo và tha hồ hái. Một chốc là cả hai đứa đều hết chỗ đựng. Đứa nào cũng dùng vạc áo để bọc thêm một số. Ra khỏi vườn một đoạn tôi bị trật tay cầm vạt áo và ổi rớt lăn đi lung tung. Tôi lượm lại gần hết nhưng nhiều trái bị dính đất cát. Sợ đem về rửa ở nhà thì bị lộ chuyện, anh Tập dắt tôi ra phía sông. Chúng tôi men theo một đường chun của những người đi câu mà xuống nước. Anh Tập không muốn xuống bến chính vì sợ gặp người ta. Trời tối, chỗ ngồi rửa khá khuất, chúng tôi vừa rửa vừa ăn. Bỗng chúng tôi nghe tiếng nước khua động gần đó. Cả hai đứa hoảng hốt cùng đảo mắt nhìn. Rồi chúng tôi run lên cầm cập muốn rụng cả tim. Một chiếc đò không người chèo, không có một người bên trong tự động nhẹ nhàng lướt từ bờ nam qua bờ bắc. Sao lạ lùng thế nhỉ! Thì đúng là ma rồi chứ còn gì nữa? Chúng tôi lặng người đi một lúc mới lấy lại được bình tĩnh. Hết ham ăn uống gì nữa, chúng tôi đầu óc căng thẳng, tim đập thình thịch, theo lối tắt để về nhà. Cả khu vực này về đêm không hề có một tiếng chó sủa. Nhiều nhà bây giờ vẫn không có người ở. Theo cậu Kế tôi kể, trước đây những người nuôi chó đều bị cảnh cáo, trừng trị rất nặng nên đến bây giờ vẫn chưa ai dám nuôi. Hai đứa tôi đang đi xăm xăm thì bỗng có hai bóng đen xuất hiện chận lại: